Công ước
Luật Biển của Liên hợp quốc 1982 (gọi tắt là Công ước 1982) là kết quả của Hội
nghị Luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc, kéo dài từ năm 1973 đến năm 1982
nhằm xây dựng một trật tự pháp lí quốc tế mới về biển và đại dương. Được coi là
“Hiến pháp về biển và đại dương”,
Công ước 1982 quy định một cách toàn diện các quyền và nghĩa vụ của tất cả các
quốc gia (có biển, không có biển, bất lợi về mặt địa lí…) trong việc sử dụng biển
và đại dương. Công ước 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 và tính đến ngày
20/7/2009 đã có 159 quốc gia thành viên. Việt Nam phê chuẩn Công ước 1982 vào
ngày 23/6/1994.
Công ước
gồm 17 phần, 320 điều và 9 Phụ lục, quy định khá toàn diện về các vùng biển và
quy chế pháp lý của chúng cũng như các vấn đề có liên quan của luật biển quốc tế,
trong đó quan trọng nhất là các quy định về: Nội thủy; lãnh hải; vùng tiếp
giáp; vùng đặc quyền kinh tế; thềm lục địa bao gồm cả thềm lục địa mở rộng; biển
cả (công hải); quy chế đảo và quốc gia quần đảo; giải quyết tranh chấp; hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực biển và đại dương. Ngoài ra Công ước cũng có những quy định
về eo biển quốc tế, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, vùng (khu
vực quốc tế đáy đại dương)…
1. Những vùng biển được quy định trong Công
ước 1982
Theo
Công ước, về nguyên tắc các quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia quần đảo có 5
vùng biển như sau; (i) Nội thủy; (ii) Lãnh hải; (iii) Vùng tiếp giáp; (iv) Vùng
đặc quyền kinh tế; (v) Thềm lục địa (kể cả thềm lục địa kéo dài). Tuy nhiên, việc
quốc gia ven biển có đầy đủ 5 vùng biển trên hay không hoàn toàn phụ thuộc vào
đặc điểm và cấu tạo địa lí của quốc gia ven biển. Việt Nam là một quốc gia ven
biển và có đặc điểm địa lí phù hợp cho việc yêu sách cả 5 vùng biển nêu trên.
Xét về
tính chất pháp lí, 5 vùng biển mà các quốc gia ven biển có quyền yêu sách theo
Công ước có thể được chia thành 2 nhóm khác nhau:
a) Các
vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển bao gồm: (i) Nội thủy (vùng biển
nằm phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải) và (ii) Lãnh hải
(vùng biển rộng 12 hải lí phía ngoài đường cơ sở). Các vùng biển này có quy chế
pháp lí như lãnh thổ lục địa. Điều này có ý nghĩa là quốc gia ven biển có quyền
thực thi chủ quyền của mình tại vùng biển này như đối với lãnh thổ đất liền (trừ
quyền qua lại vô hại lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài).
b) Các
vùng biển mà quốc gia thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán bao gồm: (i)
Vùng tiếp giáp (vùng biển nằm ngoài và tiếp liền lãnh hải và rộng 24 hải lí
tính từ đường cơ sở); (ii) Vùng đặc quyền kinh tế (vùng biển nằm phía ngoài và
tiếp liền với lãnh hải, rộng 200 hải lí tính từ đường cơ sở) và (iii) Thềm lục
địa (bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển phía bên ngoài của lãnh hải
trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển cho đến
bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến khoảng cách 200 hải lí tính từ đường cơ sở
trong trường hợp ranh giới ngoài của thềm lục địa ít hơn 200 hải lí). Tại các
vùng biển này, quốc gia ven biển được thực hiện một số quyền mang tính chất chủ
quyền và chỉ có quyền tài phán trong một số lĩnh vực nhất định.
2. Đường cơ sở

Phố biển chiều hoàng hôn-Ảnh: HĐB
Đường
cơ sở là đường dùng để xác định chiều rộng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa của quốc gia ven biển. Trong những điều kiện thông thường, các quốc gia
ven biển có thể lấy ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển làm đường cơ sở.
Trong một số điều kiện đặc biệt (như có sự hiện diện của 1 chuổi đảo ven bờ, bờ
biển bị lồi lõm liên tục…), quốc gia ven biển có thể chọn một số điểm thích hợp
làm điểm cơ sở và nối những điểm này thành đường cơ sở (đường cơ sở thẳng). Quốc
gia ven biển cũng có thể kết hợp cả 2 phương pháp xác định đường cơ sở nêu
trên.
3. Nội thủy
Nội thủy
là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở. Tại nội
thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ
đất liền của mình.

Bờ biển Quy Nhơn, Bình Định-Ảnh: HĐB
4. Lãnh hải
Lãnh hải
của quốc gia ven biển là vùng biển tiếp liền và nằm phía ngoài đường cơ sở, thuộc
chủ quyền của quốc gia ven biển. Theo quy định tại Công ước 1982, các quốc gia
ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình tới một giới hạn không
vượt quá 12 hải lí tính từ đường cơ sở.
Chủ quyền
quốc gia ven biển đối với lãnh hải không phải tuyệt đối như đối với nội thủy,
do Công ước 1982 thừa nhận quyền qua lại vô hại lãnh hải của tàu thuyền nước
ngoài. Đây chính là sự thỏa hiệp giữa các quốc gia ven biển và các cường quốc
hàng hải trong việc thừa nhận quốc gia ven biển có vùng lãnh hải rộng 12 hải lí
(trước đây, thông thường lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ rộng 3 hải lí).
Quyền
qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài, Công ước 1982 quy định:
- Tất cả
các loại tàu thuyền (dân sự và quân sự) của tất cả các nước đều được hưởng quyền
qua lại vô hại mà không có sự phân biệt đối xử.
- “Qua
lại” tức là đi qua lãnh hải để vào nội thủy hoặc từ nội thủy đi ra qua lãnh hải
hoặc đi qua lãnh hải mà không vào nội thủy. Đi qua là trạng thái di chuyển liên
tục của tàu thuyền, không được phép dừng lại (trừ trường hợp bất khả kháng như
gặp sự cố thông thường về hàng hải, mắc cạn hoặc vì mục đích cứu giúp người,
phương tiện khác đang bị lâm nguy). Việc qua lại vô hại phải được tiến hành
nhanh chóng và liên tục.
- “Qua
lại vô hại” là không xâm phạm đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia
ven biển, tuyệt đối không được tiến hành một hoặc nhiều những hành động sau đây
khi đi qua lãnh hải: (i) đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ hay độc lập chính trị của quốc gia ven biển; (ii) diễn tập quân sự;
(iii) thu thập tin tức tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của quốc
gia ven biển; (iv) tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng, an ninh của quốc
gia ven biển; (v) phóng đi, tiếp nhận, sắp xếp các phương tiện bay; (vi) cất
lên, hạ xuống hoặc đưa lên tàu những phương tiện quân sự; (vii) bốc dỡ hàng
hóa, đưa lên xuống tiền bạc hoặc người trái với luật lệ hải quan, thuế khóa, nhập
cư, y tế của quốc gia ven biển; (viii) gây ô nhiễm biển; (ix) đánh bắt hải sản;
(x) nghiên cứu, khảo sát biển; (xi) làm rối loạn hệ thống liên lạc hoặc công
trình, thiết bị của quốc gia ven biển và (xii) các hoạt động khác không liên
quan trực tiếp đến việc qua lại.
- Quốc
gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền
nước ngoài thực hiện việc qua lại lãnh hải của mình trong các vấn đề: (i) an
toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; (ii) bảo vệ các thiết bị, công
trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; (iii)
bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; (iv) ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia
ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu
khoa học biển và (v) ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, nhập cư, y tế.
5. Vùng đặc quyền kinh tế
Theo
quy định của Công ước năm 1982, vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển là
vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền với lãnh hải, có chiều rộng 200 hải lí
tính từ đường cơ sở. Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các
quyền chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lí các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển,
của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm
thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng
từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền
tài phán theo đúng những quy định của Công ước về việc: Lắp đặt và sử dụng các
đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ
gìn môi trường biển.
c) Các
quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Trong
khi thực hiện các quyền nói trên, quốc gia ven biển có nghĩa vụ phải chú ý
thích đáng đến quyền của các nước khác đã được luật pháp quốc tế thừa nhận.
Trong
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia, dù có biển
hay không có biển, trong những điều kiện do các quy định thích hợp của Công ước,
đều được hưởng 3 quyền tự do cơ bản sau đây:
- Quyền
tự do hàng hải;
- Quyền
tự do hàng không;
- Quyền
tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.

Biển Nha Trang-Ảnh: HĐB
6. Thềm lục địa
Công ước
1982 quy định thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo
dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục
địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lí, khi
bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn.
Theo
quy định của Công ước 1982, quốc gia ven biển có chủ quyền đối với việc thăm
dò, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình và quyền của
quốc gia ven biển đối với thềm lục địa là đặc quyền. Có nghĩa là, quốc gia ven
biển không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu
không được sự đồng ý của quốc gia ven biển. Các quyền của quốc gia ven biển đối
với thềm lục địa không phụ thuộc vào việc chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa,
cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. Điểm này hoàn toàn khác với quy chế
pháp lí của vùng đặc quyền kinh tế ở chỗ đối với vùng đặc quyền kinh tế ngoài
việc quốc gia ven biển phải tuyên bố về yêu sách của mình, trong trường hợp
không khai thác hết các nguồn tài nguyên sinh vật với mức độ có thể chấp nhận
được, quốc gia ven biển có thể cho các quốc gia khác như quốc gia không có biển,
quốc gia bất lợi về mặt địa lí tiến hành khai thác phần tài nguyên sinh vật dư
thừa trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Cũng
như đối với vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác cũng được hưởng các quyền
tự do như tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của quốc gia ven biển.
7. Thềm lục địa mở rộng
Trong
trường hợp bờ ngoài của rìa thềm lục địa của quốc gia ven biển mở rộng quá khoảng
cách 200 hải lí thì quốc gia ven biển có quyền yêu sách vùng thềm lục địa kéo
dài thông qua việc đệ trình Ủy ban ranh giới thềm lục địa báo cáo quốc gia chứng
minh phần thềm lục địa này là phần kéo dài tự nhiên của lục địa. Báo cáo cần
tuân thủ các hướng dẫn về kỹ thuật, pháp lí của Ủy ban ranh giới thềm lục địa.
Trong
trường hợp chứng minh được có sự trải dài tự nhiên của thềm lục địa vượt quá
200 hải lí tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có quyền yêu sách thềm lục địa
mở rộng ngoài 200 hải lí. Tuy nhiên, khu vực thềm lục địa mở rộng không được vượt
quá 350 hải lí tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lí tính từ đường đẳng
sâu 2.500m (đường
nối liền các điểm có chiều sâu 2500 m).
Theo
quy định của Công ước và quyết định của Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước
Luật biển lần thứ 11 (năm 2001), ngày 13/5/2009 là hạn để các quốc gia đệ trình
Báo cáo xác định ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lí. Tính đến nay, đã
có 51 báo cáo nộp cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa. Việt Nam đã nộp 02 báo cáo
(trong đó có Báo cáo chung với Ma-lai-xi-a về khu vực thềm lục địa phía Nam Biển
Đông) và đã trình bày 02 báo cáo này tại khóa họp lần thứ 24 của Ủy ban ranh giới
thềm lục địa ngày 27-28/8/2009.
8. Biển cả
Biển cả
là vùng biển nằm ngoài các vùng biển thuộc phạm vi chủ quyền và quyền tài phán
của các quốc gia ven biển. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia có biển
hoặc không có biển. Ở biển cả, các quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, hàng
không, đặt dây cáp và ống ngầm, đánh bắt cá, nghiên cứu khoa học… Tuy nhiên,
các quốc gia khi hoạt động ở biển cả cần tôn trọng lợi ích của các quốc gia
khác cũng như cần tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước như: Bảo vệ
môi trường biển, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, an toàn hàng hải, hợp tác trấn
áp cướp biển…
9. Quy chế đảo

Đảo Yến Khánh Hòa-Ảnh: HĐB
Đảo là
một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc xung quanh và phải luôn nổi trên mặt nước.
Các đảo được quyền có các vùng biển như đối với đất liền. Tuy nhiên, theo quy định
tại Điều 121 của Công ước 1982, “đá” không thích hợp cho con người sinh sống hoặc
không có đời sống kinh tế riêng thì không được quyền có vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa.
Đông Bắc