Giải
quyết tranh chấp được thừa nhận là một trong những bước phát triển quan trọng
nhất trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế kể từ khi thông qua Hiến chương
Liên hợp quốc và Quy chế của Tòa án quốc tế. Hệ thống giải quyết tranh chấp
trong Công ước 1982 được xây dựng với mục tiêu bảo vệ và duy trì trật tự pháp
lí quốc tế mới về biển và đại dương khỏi những giải thích và vận dụng đơn
phương có thể dẫn đến việc phá vỡ trật tự pháp lí này thông qua việc quy định
nghĩa vụ giải quyết theo thủ tục bắt buộc bằng bên thứ ba các tranh chấp phát
sinh giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công
ước.
Hơn thế
nữa, hệ thống giải quyết tranh chấp trong Công ước 1982 còn hướng tới mục tiêu
góp phần vào việc duy trì và tăng cường hòa bình và an ninh quốc tế bằng việc
tái khẳng định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên giải quyết các tranh chấp nảy
sinh từ Công ước bằng các hiện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp và công lí
quốc tế.

Bãi Sao Phú Quốc-Ảnh:HĐB
1. Các đặc điểm chủ yếu của cơ chế giải quyết
tranh chấp trong Công ước 1982
a) Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước
Luật Biển năm 1982 quy định nghĩa vụ các quốc gia thành viên giải quyết theo thủ
tục bắt buộc các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước.
b) Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước
Luật Biển năm 1982 chiếm một dung lượng khá lớn trong toàn bộ nội dung của Công
ước.
c) Đối tượng điều chỉnh của cơ chế giải quyết
tranh chấp trong Công ước Luật Biển năm 1982 khá rộng.
Các
tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982
có thể được phân loại thành các tranh chấp cụ thể dưới đây:
- Tranh
chấp liên quan tới việc phân định các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài
phán của quốc gia ven biển;
- Các
tranh chấp liên quan đến việc thực thi các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
trên vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia ven biển, bao gồm:
+ Các
tranh chấp liên quan đến việc thực thi các quyền của quốc gia ven biển trong việc
đánh bắt cá và bảo tồn nguồn tài nguyên sinh vật, đặc biệt là nguồn tài nguyên
cá ở vùng đặc quyền kinh tế, kể cả việc bắt giữ tàu thuyền vi phạm các quy định
về đánh bắt cá của quốc gia ven biển;
+ Các
tranh chấp liên quan đến quyền tự do hàng hải, tự do lắp đặt dây cáp, ống dẫn
ngầm ở các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa;
+ Các
tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường biển;
+ Các
tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu
thuyền và phương tiện bay của nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có
tính chất thương mại, việc thực hiện tập trận ở vùng đặc quyền kinh tế;
+ Các
tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các quy định về nghiên cứu khoa học biển…
- Các
tranh chấp liên quan đến việc thực thi các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
trên vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia.
- Các
tranh chấp liên quan tới các hoạt động ở khu vực vùng, khu vực đáy biển nằm
ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia.
d) Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước
1982 có đối tượng áp dụng rộng.
đ) Nội dung cơ chế giải quyết tranh chấp
trong công ước 1982 được xây dựng trên cơ sở và là sự phát triển các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế.

Một góc An Thới, Phú Quốc-Ảnh:HĐB
2. Nội dung cơ bản của cơ chế giải quyết
tranh chấp trong Công ước 1982
Nội
dung và các nguyên tắc cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước
1982 bao gồm:
2.1. Các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết
hòa bình các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước
1982
Điều
279 Công ước Luật Biển năm 1982 quy định: “Các
quốc gia thành viên sẽ giải quyết bất cứ tranh chấp nào giữa họ liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng biện pháp hòa bình phù hợp với Điều
2, khoản 3 của Hiến chương Liên hợp quốc và vì mục đích này, cần tìm ra giải
pháp bằng các biện pháp đã được nêu ra tại Điều 33 của Hiến chương”.
2.2. Thủ tục bắt buộc đưa đến các quyết định
mang tính ràng buộc
Đây là
đặc trưng cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước 1982 và đươc
coi như là một bước phát triển mới của luật pháp quốc tế nói chung và trong
lĩnh vực luật biển quốc tế nói riêng, do hầu hết các điều ước quốc tế liên quan
đến luật biển đều không quy định nghĩa vụ bắt buộc giải quyết tranh chấp bằng
bên thứ ba.
Các thủ
tục bắt buộc dẫn đến các quyết định bắt buộc được quy định trong Mục 2 của phần
XV, từ các Điều 286 đến Điều 296 của Công ước 1982. Theo quy định tại Mục này,
bất cứ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước 1982,
khi không được giải quyết bằng đàm phán hay các cơ chế khác như được trù liệu
trong Mục 1 của phần XV, theo yêu cầu của
bất cứ bên tranh chấp nào, sẽ được đệ trình ra trước trọng tài hoặc tòa án có
thẩm quyền theo quy định tại phần này (Điều 286).
Theo
quy định tại phần này thì việc giải quyết bắt buộc tranh chấp được tiến hành
thông qua các thiết chế xét xử sau:
i) Tòa
án Công lí quốc tế;
ii) Tòa
án quốc tế về Luật biển;
iii)
Tòa Trọng tài;
iv) Tòa
Trọng tài đặc biệt.
Trong
trường hợp các quốc gia thành viên không tiến hành lựa chọn hoặc không cùng lựa
chọn thủ tục thì họ có nghĩa vụ đưa tranh chấp của mình ra xét xử theo thủ tục
trọng tài (Điều 287, Công ước Luật Biển năm 1982).

Du khách nước ngoài lặng biển ngắm san hô ở An Thới-Ảnh:HĐB
Bất cứ
thời điểm nào (ký, phê chuẩn hoặc tham
gia Công ước Luật Biển năm 1982 hoặc bất cứ thời điểm nào sau đó) các quốc
gia có thể ra tuyên bố chấp nhận trước quyền tài phán của một hoặc nhiều thể chế
xét xử nêu trên trong việc giải quyết các tranh chấp của mình liên quan đến việc
giải thích và áp dụng Công ước. Các quốc gia cũng có quyền hủy, thay đổi tuyên
bố về việc lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp của mình theo những điều kiện
được quy định tại khoản 1, 2, 6, 7 và 8 Điều 287 của Công ước. Tuyên bố này được
gửi tới Tổng Thư ký Liên hợp quốc để lưu chiểu và Tổng Thư ký Liên hợp quốc sẽ
thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên khác về vấn đề này cũng như Tuyên
bố này sẽ được đăng tải tại website chính thức của Vụ các vấn đề Biển và Đại
dương của Liên hợp quốc.
2.3. Giới hạn và ngoại lệ đối với việc áp dụng
thủ tục bắt buộc đưa đến các quyết định mang tính ràng buộc
Bản chất
của những quy định này là hạn chế quốc gia thành viên sử dụng và áp dụng thủ tục
giải quyết tranh chấp bắt buộc trong Công ước 1982 trong những điều kiện và
hoàn cảnh nhất định. Nếu như các quy định tại Mục 2 của phần XV Công ước 1982
cho phép quốc gia thành viên đơn phương đưa tranh chấp ra giải quyết tại một
trong bốn thiết chế giải quyết tranh chấp được nêu trên thì Mục 3 được xây dựng
trên cơ sở là một số loại tranh chấp nhất định sẽ không phải là đối tượng điều
chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Nói cách khác, trong một số điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể, thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc giải
thích hoặc áp dụng Công ước của các thiết chế xét xử được nêu tại Điều 287 của
Công ước 1982 bị “triệt tiêu”. Việc loại bỏ một số loại tranh chấp nhất định ra
khỏi thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc là điều kiện tiên quyết để các quốc
gia thành viên tham gia Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 chấp nhận các quy định về
giải quyết tranh chấp trong Công ước Luật Biển năm 1982.

Vẻ kì bí của biển đảo quê hương-Ảnh: HĐB
Theo
quy định tại Mục 3 phần XV của Công ước Luật Biển năm 1982, có 2 hình thức “miễn
trừ” việc áp dụng quyền tài phán bắt buộc, đó là miễn trừ đương nhiên và ngoại
lệ. Miễn trừ đương nhiên được quy định tại Điều 297 và miễn trừ mang tính ngoại
lệ được điều chỉnh bởi Điều 298 của Công ước Luật Biển năm 1982.
Theo điều
297, một số loại tranh chấp nhất định đương nhiên được loại bỏ khỏi thủ tục bắt
buộc, bao gồm: Tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước
trong việc nghiên cứu khoa học biển theo các Điều 246 và 253; tranh chấp liên
quan đến quyền quản lí của quốc gia ven biển đối với tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền kinh tế theo Điều 61-72 của Công ước… Điều này có ý nghĩa rằng,
liên quan đến các tranh chấp này, các quốc gia thành viên không bị ràng buộc bởi
thủ tục mang tính chất bắt buộc.
Mặt
khác, theo Điều 298 “nếu một quốc gia
thành viên Công ước Luât Biển năm 1982 tuyên bố vào bất cứ thời điểm nào rằng họ
không chấp thuận một trong các thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính chất bắt
buộc liên quan đến một số loại tranh chấp nhất định, các bên tranh chấp khác
không thể sử dụng thủ tục mang tính chất bắt buộc để chống lại quốc gia thành
viên này khi có phát sinh các tranh chấp này”.
Những
loại tranh chấp mà các quốc gia có thể tuyên bố không thuộc đối tượng điều chỉnh
của việc giải quyết tranh chấp bắt buộc bao gồm:
- Các
tranh chấp liên quan đến việc phân định các vùng biển theo Điều 15, 74 và 83 của
Công ước Luật Biển năm 1982 hoặc các vụ tranh chấp về vịnh hay danh nghĩa lịch
sử.
- Các
tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu
thuyền và phương tiện bay của nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có
tính chất thương mại.
- Tranh
chấp liên quan đến các hành động bảo đảm thi hành luật pháp trong việc thực thi
các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia về quản lí tài nguyên sinh
vật và nghiên cứu khoa học và khoản 2 và 3 Điều 297 đã loại trừ khỏi thẩm quyền
của một tòa án.
- Các
tranh chấp mà Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giải quyết theo thẩm quyền của mình
được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc.
Tuyên bố
về việc không chấp nhận một hoặc nhiều thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc
có thể được các quốc gia thành viên Công ước Luật Biển năm 1982 đưa ra vào bất
cứ thời điểm nào, song phải dưới hình thức văn bản và được gửi tới Tổng Thư kí
Liên hợp quốc. Các quốc gia cũng có quyền đưa ra một tuyên bố mới hoặc rút lại tuyên
bố về vấn đề này theo các thủ tục quy định tại Điều 298 của Công ước 1982. Cũng
như tuyên bố lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc, tuyên bố không chấp
nhận thủ tục cũng được đăng tải tại website chính thức của Vụ các vấn đề Biển
và Đại dương của Liên hợp quốc./.
Đông Bắc